Video:
Kính chào quý vị. Tôi là bác sĩ Đỗ Hoài Vincent và hôm nay tôi xin tiếp theo đề tài "Sự Trao Đổi Chất Của Bệnh Tự Kỷ Tiết Lộ Nguồn Gốc Phát Triển".
Trong phần đầu của đề tài này chúng ta đã nói đến nguyên cứu của giáo sư bác sĩ tiến sĩ Robert Naviaux từ trường đại học y UC San Diego. Theo các nhà nguyên cứu cho biết thì bệnh tự kỷ hầu hết xảy ra sau khi sinh ra, vì do các tác động đến từ môi trường. Cũng theo các nhà nguyên cứu, tác động chính gây ra bệnh tự kỷ là do sự rối loạn của quá trình trao đổi chất và điều này làm không tạo ra đủ năng lượng ATP, rồi dẫn đến phản ứng nguy hiểm của tế bào. Những điều này gây ra sự căng thẳng cho tế bào và làm các giác quang không làm việc bình thường, khi điều này xảy ra lâu ngày thì bệnh mãn tính như tự kỷ có thể sẽ xảy ra.
Điều căn bảng chúng ta cần nhớ là não bộ cần hai điều để sống và phát triển đó là nhiên liệu và sự kích thích. Khi không có đủ năng lượng ATP thì điều này trực tiếp ảnh hưởng đến nhiên liệu của tế bào, nên kết quả của nguyên cứu này tôi thấy rất hợp lý. Còn vấn đề kích thích não bộ lại là đề tài khác vì những luyện tập cần làm là để giúp cho các giác quang làm việc tốt hơn, cũng như giúp tạo ra thêm sự thăng bằng khả năng giữa hai khối não trái và phải.
Trong phần hai của đề tài này, chúng ta cùng ôn lại căn bảng của tế bào và cũng là nền tảng sức khỏe. Khi các tế bào bị suy yếu thì sẽ có khả năng tạo ra nhiều bệnh mãn tính, kể cả tự kỷ vì tự kỷ là một trong những căn bệnh mãn tính. Khi chúng ta hiểu được điều này thì sẽ biết được nguốc gốc của hầu hết các căn bệnh mãn tính, và cũng có thể giúp cho hầu hết các căn bệnh mãn tính có khả năng phục hồi trở lại nếu chúng ta làm cho các tế bào khỏe lại. Muốn làm cho các tế bào khỏe lại thì phải đem chất kiềm đi ngược lại vào bên trong các tế bào, điều này nghe dễ nhưng không đơn giản vì phải làm cho môi trường bên trong các tế bào trở nên sạch sẽ trước khi chất kiềm có thể trở lại vào bên trong. Khi các tế bào khỏe lại, thì năng lượng ATP sẽ được tạo ra đủ để giúp các tế bào làm việc ở mức độ cao, và giúp cơ thể tự phục hồi các căn bệnh mãn tính kể cả tự kỷ.
Đây là hình diễn tả sức khỏe tự nhiên của tế bào. Điều này chỉ là kiến thức sinh học thông thường của tế bào trong môi trường phát triển lành mạnh và tự nhiên. Đối với những người khỏe mạnh, thì tế bào sẽ có nhiều chất kiềm bên trong tế bào, và chất muối ở bên ngoài tế bào. Còn đối với những người có bệnh mãn tính như là tự kỷ thì tế bào sẽ có nhiều muối ở bên trong tế bào. Ở giữa tế bào là gien của chúng ta. Khi muối xâm nhập vào bên trong thì có nhiều rủi ro thay đổi gien.
Khi mới sinh ra thì tế bào thuộc vào dạng sơ sinh và sẽ có nhiều muối bên trong cho tới lúc 6 tháng tuổi (hình màu đỏ), sau 6 tháng tuổi nếu được phát triển bình thường, khỏe mạnh, và trưởng thành thì tế bào sẽ có nhiều chất kiềm bên trong các tế bào. Trong suốt cuộc đời nếu sống lành mạnh thì tế bào sẽ có nhiều chất kiềm bên trong như hình màu xanh cho đến cuối đời, nếu khi về già mà có nhiều bệnh thì tế bào sẽ có nhiều muối bên trong trở lại thành tế bào sơ sinh như ngay sau lúc sinh ra. Nhiều kết quả thử nghiệm liên quan đến ung thư cho thấy nhiều tế bào ung thư thuộc vào dạng sơ sinh.
Khi tế bào có nhiều muối bên trong thì giống như thuộc vào dạng sơ sinh, ít không khí oxy bên trong hoặc còn gọi là anaerobic. Khi không có nhiều không khí oxy bên trong thì khả năng tạo ra năng lượng tế bào ATP sẽ ít hơn 19 lần khi so sánh với môi trường có nhiều khí oxy bên trong tế bào. Muối ở bên trong tế bào làm ngưng sự hoạt động của enzymes, giảm khả năng tạo năng lượng tế bào ATP, sẽ kéo thêm nước vào bên trong tế bào, điều này cũng giống như gây lụt lội cho các bộ phận bên trong tế bào kể cả DNA, lâu ngày sẽ làm thay đổi gien. Không sản xuất ra đủ năng lượng tế bào ATP thì các tế bào không có đủ nhiên liệu để làm việc, cộng thêm tế bào vẩn còn ở trong dạng sơ sinh, nên điều này cũng giúp chúng ta dễ hiểu vì sao nhiều trẻ tự kỷ không phát triển.
Chúng ta chỉ cần nhớ khi tế bào khỏe mạnh thì có nhiều chất kiềm bên trong. Chất kiềm sẽ giúp môi trường bên trong tế bào có nhiều không khí oxy hay còn gọi là aerobic. Tế bào có nhiều chất kiềm bên trong là tế bào có nhiều tiềm năng phát triển vì các enzymes làm việc ở mức độ cao. Khi môi trường bên trong tế bào có nhiều không khí oxy thì tế bào có khả năng sản xuất ra năng lượng tế bào ATP gấp 19 lần nhiều hơn khi so sánh với tế bào không có nhiều khí bên trong.
Vừa rồi là kiến thức căn bảng tại sao các căn bệnh mãn tính kể cả bệnh tự kỷ xảy ra, và cũng là cách giúp cho bệnh tự kỷ phục hồi từ nguồn gốc. Đối với trẻ tự cókhả năng cao thì việc giúp mang chất kiềm trở lại bên trong các tế bào rất dễ, nhưng nếu khả năng của trẻ tự kỷ quá yếu thì rất khó vì các em không hiểu nên không thể làm theo mệnh lệnh. Trong trường hợp này thì chỉ áp dụng các phương cách kích thích cho não khỏe trước rồi việc giúp các tế bào khỏe thêm sẽ tính sau. Phương cách giúp các tế bào khỏe lại giúp được hầu hết các căn bệnh mãn tính nếu làm theo sát sự hướng dẫn. Chìa khóa giúp thành công được hay không là có thực hành giống như đã hướng dẫn hay không.
Vì gan đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp tái tạo lại các enzymes vì các enzymes giúp sự trao đổi chất xảy ra, nên chúng ta cần phải giúp sức khỏe lá gan phục hồi. Nếu chúng ta muốn giúp tình trạng sức khỏe của lá gan phục hồi mau lẹ hơn thì phải chích thuốc bổ và tinh chất gan vào cơ thể thường xuyên. Đây là vấn đề khó khăn với trẻ em nên ít người thực hiện, do đó kết quả nhanh hay chậm là do chúng ta có làm theo sát chương trình hướng dẫn hay không? Khi làm việc chung với quý vị tôi trình bày tất cả những gì cần nên làm để giúp cơ thể các em phục hồi từ nguồn gốc, nhưng người quyết định cần làm gì vẫn là quý vị.
Cũng trong nguyên cứu này, giáo sư bác sĩ tiến sĩ Robert Naviaux từ trường đại học y UC San Diego có nói thêm các chi tiết về phản ứng nguy hiểm của tế bào như sau.
Khi phản ứng nguy hiểm của tế bào tồn tại bất thường và kéo dài, quá trình trao đổi chất toàn cơ thể và hệ vi sinh vật đường ruột bị xáo trộn, hoạt động chung của nhiều hệ thống cơ quan bị suy giảm, hành vi bị thay đổi và dẫn đến bệnh mãn tính. Ký ức trao đổi chất về những lần gặp căng thẳng trong quá khứ được lưu trữ dưới dạng hàm lượng đại phân tử của ty thể và tế bào bị thay đổi, dẫn đến tăng khả năng dự trữ chức năng thông qua một quá trình được gọi là nội tiết tố ty thể.
Sự tích hợp cảm giác hóa học của quá trình trao đổi chất toàn cơ thể xảy ra trong thân não và là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bình thường của não, vận động, tiền đình, giác quan, xã hội và lời nói. Sự hiểu biết về phản ứng nguy hiểm của tế bào cho phép chúng ta điều chỉnh lại các khái niệm cũ về sinh bệnh học cho một loạt các rối loạn mãn tính, phát triển, tự miễn dịch và thoái hóa. Những rối loạn này bao gồm:
Rối loạn phổ tự kỷ (ASD)
Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD)
Hen suyễn(asthma)
Dị ứng (atopy)
Gluten và nhiều hội chứng nhạy cảm với thực phẩm và hóa chất khác
Khí thũng (emphysema)
Hội chứng Tourette
Rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder)
Tâm thần phân liệt (schizophrenia)
Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD)
Bệnh não chấn thương mãn tính (CTE)
Chấn thương sọ não (TBI)
Động kinh (epilepsy)
Ý định tự tử (suicidal ideation)
Sinh học cấy ghép nội tạng (organ transplant)
Tiểu đường (diabetes
Bệnh thận (kidney)
Gan và tim
Ung thư
Bệnh Alzheimer và Parkinson
Và các rối loạn tự miễn dịch như lupus
Viêm khớp dạng thấp, bệnh đa xơ cứng, và viêm đường mật xơ cứng nguyên phát.
Một điều khá quan trọng chúng ta không thể không nhắc đến đó là lượng chất độc trong máu cuống rốn của nhiều trẻ tự kỷ. Các nguyên cứu cho biết họ tìm thấy nhiều hóa chất độc khi thử máu cuốn rốn của trẻ tự kỷ. Trong số 287 hóa chất được phát hiện trong máu cuống rốn: 180 gây ung thư ở người và động vật, 217 gây độc cho não và hệ thần kinh, 208 gây dị tật bẩm sinh hoặc phát triển bất thường khi thử nghiệm trên động vật.
Hóa chất độc làm giảm điện của tế bào, làm chất kiềm thoát ra khỏi tế bào và sau đó muối và nước xâm nhập vào bên trong tế bào, muối làm môi trường bên trong tế bào không có nhiều khí oxy nên làm giảm khả năng sản xuất năng lượng tế bào ATP 19 lần khi so sánh với môi trường có nhiều khí oxy bên trong tế bào. Khi không có đủ năng lượng lâu ngày thì các tế bào sẽ rơi vào tình trạng báo động nguy hiểm, và những triệu chứng tự kỷ mà chúng ta gặp là kết quả của sự rối loạn có nguồn gốc từ sự thất thường liên hệ đến nhiên liệu của các tế bào. Do đó việc giúp trẻ tự kỷ thải độc là điều quan trọng, nếu không sẽ khó mà giúp chất kiềm trở vào lại bên trong các tế bào.
Nguyên cứu từ năm 1936 cho chúng ta biết về điều tôi vừa nói, điện thế của gan và cơ giảm đi 30 milivolt hoặc hơn sau khi họ tiêm độc tố bạch hầu hoặc các chất độc khác vào máu của thỏ. Sau vài phút, người ta có thể quan sát bằng kính hiển vi rằng một số chất độc xâm nhập vào các tế bào nhu mô và bị các tế bào đó đẩy lùi trước đó. Sau nửa giờ, một lượng muối xuất hiện trong nhu mô gan. Thí nghiệm này được thực hiện vào năm 1936 cho thấy rõ ràng rằng: 1) Ngộ độc là tác dụng đầu tiên, sau đó là 2) mất điện thế và 3) mất khoáng chất kiềm.
Bệnh tự kỷ chỉ là một trong những bệnh mãn tính. Tự kỷ là căn bệnh liên quan đến toàn cơ thể chứ không phải chỉ liên quan đến hành vi. Quý vị thấy
Co giật (khoản 30%)
Suy giảm nhận thức
Bất thường cảm giác vận động
Rối loạn giấc ngủ
Suy giảm miễn dịch
Đau dạ dày
Dị ứng thực phẩm
Rối loạn chuyển hóa hệ thống
Do đó phải chữa bệnh tự kỷ theo một tình trạng toàn thân, toàn hệ thống, chứ không phải chỉ chữa hành vi.
Khi bác sĩ Leo Kanner lần đầu tiên trình bày bệnh tự kỷ trên tạp chí y học năm 1943, ông đã ghi ra những căn bệnh cho nhiều em trong số 11 bệnh nhân tự kỷ của ông. Quý vị có thể xem những chữ màu đỏ bằng Anh ngữ trên màng hình thì sẽ rỏ.
Em số 1 bị kén ăn.
Em số 2 bị viêm amidan.
Em số 3 bị tiêu chảy, sốt, viêm amidan và vòm họng.
Em số 4 bị ói mữa và bị cắt bỏ amidan.
Em số 5 phải ăn bằng ống, bị suy dinh dưỡng
Em số 7 bị ói mữa.
Em số 8 bị gặp trở ngại khi uống sữa công thức, bị nhiễm trùng, viêm cuống phổi, bệnh chốc lở.
Em số 9 bị miễn dịch hoạt động quá mức.
Em số 10 hay phải nhập viện do không ăn uống được, hay bị cảm và viêm lỗ tai.
Em số 11 phải uống thuốc tuyến yên và tuyến giáp trạng 18 tháng.
Quý vị thấy đó, tự kỷ phần lớn có đi kèm với những căn bệnh liên hệ đến suy yếu kháng thể nên dễ đưa đến các căn bệnh khác. Khi sức khỏe không tốt thì các tế bào không có nhiều chất kiềm, điều này làm các tế bào không có nhiều oxy và không thể sản xuất ra nhiều năng lượng ATP, điều này dễ dàng dẫn đến bệnh mãn tính và tự kỷ là một trong những căn bệnh mãn tính.
Phần lớn các phụ huynh vẫn còn dùng mô hình củ lỗi thời để giúp các em tự kỷ bằng cách đi học nhớ, theo mô hình củ thì tự kỷ không có hy vọng vì nó được đặt trên lý thuyết tự kỷ là do di truyền. Công việc giúp trẻ tự kỷ phục hồi của tôi có nhiều học hỏi từ bác sĩ Martha Herbert.
Theo bác sĩ Martha Herbert từ đại học y Havard, bác sĩ hàng đầu nguyên cứu thần kinh não cho biết:
Mô hình củ của bệnh tự kỷ nói Gien, không thể tránh khỏi vì gien là tự kỷ
Điều này xảy ra trước khi sinh, nên mọi chuyện đã cố định. Những điều xảy ra trong não đã cố định nên không thể thay đổi, kết cuộc là không có hy vọng. Do đó họ nói đưa con của quý vị đi học nhớ, học nói theo khuôn.
Vì mô hình củ không được đúng với những khám phá từ các nguyên cứu mới, mô hình mới cho biết: Gien cũng ảnh hưởng bởi môi trường sống, nhiều tự kỷ xảy ra sau khi sinh ra, não bộ có thể thay đổi được, và một số trẻ tự kỷ đã hoàn toàn phục hồi. Mô hình mới cho hy vọng, trong khi mô hình củ chỉ là tuyệt vọng.
Khi so sánh hai mô hình tự kỷ bên cạnh nhau, chúng ta thấy mô hình củ là do di truyền, đả bị in đúc trong não, nên không thể nào hết được, do đó chỉ đi học theo khuôn. Mô hình củ nói não bộ của trẻ tự kỷ đã hoàn toàn bị hư.
Mô hình mới cho biết chúng ta có thể có gien liên hệ đến bệnh kỷ nhưng môi trường sống có thể làm bệnh tự kỷ không xảy ra hoặc làm tự kỷ trở lại bình thường, mô hình mới liên kết não bộ và cơ thể, sự trao đổi chất đóng vai trò rất lớn giúp tự kỷ phục hồi, và tự kỷ chữa được với khả năng có thể trở thành bình thường. Mô hình mới cho rằng nhiều sự thiếu thăng bằng trong cơ thể tạo ra bệnh tự kỷ, do đó phải giúp cơ thể có lại nhiều sự thăng bằng để giúp trẻ tự kỷ trở lại bình thường.
Với những kiến thức vừa trình bày, quý vị sẽ làm gì khi thấy sự khác biệt của 2 mô hình củ và mới khi muốn giúp trẻ tự kỷ. Mô hình củ đã được áp dụng cả 80 năm nay nhưng tự kỷ vẫn là tự kỷ. Nếu quý vị muốn con mình có sự thay đổi thì nên thử mô hình mới vì tôi đã chứng kiến nhiều trẻ tự kỷ hoàn toàn trở thành những công dân bình thường và có cuộc sống bình thường như tất cả các công dân khác. Tương lai con của quý vị nằm trong sự điều khiển của quý vị. Nếu quý vị thấy những điều vừa trình bày có lý thì xin quý vị vào trang mạng của chúng tôi đẻ tìm hiểu thêm, sau đó gọi cho tôi nếu quý vị muốn có hành động để giúp cho con của mình.
Cảm ơn quý vị đã theo dỏi phần trình bày vừa rồi. Xin chào và hẹn gặp lại. Chân thành cảm ơn.
Bác Sĩ Đỗ Hoài Vincent
https://www.SanJoseBrainWellnessInstitute.com
Zalo: Chọn USA +1 6696093399
USA Tel: (408)770-9798, hoặc (408)256-6405
FaceTime (iPhone): 16696093399
Email: drvincentdo@gmail.com