Sunday, September 19, 2021

Tại sao trẻ em không cần máy điện toán hoặc các đồ chơi điện tử

Phần lớn các genes giúp tạo sự làm việc nơi não bộ là những genes lệ thuộc vào kích thích của các hóa chất. Nhưng ngược lại các genes này làm việc dựa vào sự vận động của cơ thể và các sự kích thích của các giác quang. Đây là lý do tại sao rất quan trọng các trẻ em cần được ra ngoài chơi, thay là vì ngồi trên ghế chơi games trong máy computer hay là các máy điện tử khác. 

Di chuyển cơ thể là một trong những kích thích quan trọng nhất cho sự phát triển khỏe mạnh của não bộ. Các genes này làm cho não bộ phát triển sẽ được khởi động (turn on) khi mà các em có những vận động hay là chơi đùa với môi trường thế giới thiên nhiên chung quanh. Đây là lý do tại sao trong máy móc như computers, làm cho chúng ta có cảm giác là những công cụ tốt giúp não bộ phát triển, lại làm ngược lại. Vì môi trường sống của chúng ta càng mỗi lúc càng lệ thuộc vào các máy móc computer, và điều này làm con cháu của chúng ta mỗi lúc một ít vận động khả năng hoạt động cơ thể. Thay vì phải đi nhiều nơi để tìm hiểu về thế giới bên ngoài, cơ thể của các em ngồi yên trong khi sử dụng các kỷ thuật của máy điện toán. 

Con trai thông thường bị ảnh hưởng nhiều hơn, vì các em bị lôi cuốn nhiều vào tivi, computer, và video games, đây là những sự làm cho não trái khỏe. Các nghiên cứu cho thấy là những người giỏi về kỷ thuật điện toán chừng nào thì sự bị yếu và về khả năng giao tiếp với những người chung quanh nhiều chừng đó, và đây là một trong những điều thường thấy người tự kỷ autism. Khả năng giao tiếp là ưu điểm của não phải. Các nghiên cứu cũng cho biết là máy computer và những đồ đạc điện tử làm tăng khả năng não trái và làm giảm khả năng não phải. Tất cả các điều này làm con trai dễ bị suy yếu não phải, và điều này cũng giúp giải thích tại sao có nhiều rủi ro tự kỷ lại sảy ra với con trai. 

Tôi tin là môi trường sống và xã hội mỗi ngày một có nhiều sự tiến đến việc làm cho não trái khỏe hơn. Điều này được nhìn thấy từ cách suy nghĩ của chúng ta, từ những hành động của chúng ta, từ hệ thống giáo dục của chúng ta, và những gì chúng ta làm hằng ngày trong đời sống của chúng ta. Sự thay đổi này sảy ra rất chậm và ảnh hưởng từ từ hơn 20 năm qua, và đang ảnh hưởng đến con cháu của chúng ta ở những lứa tuổi mỗi lúc mỗi trẻ hơn. Có thể nói là ngày sau lúc sinh ra, các em đã có nhiều sự kích thích bởi tivi, computer, video games, và những máy móc điện tử khác, kể cả những thứ gọi là giúp cho các em học chẳng hạn như game hay là những hình vẽ để giúp các em học ngay khi các em còn nằm trong nôi. 

Điều rất quan trọng chúng ta cần hiểu rằng não bộ của các em bé và trẻ em không phải là não bộ của người lớn trong dạng nhỏ hơn. Não bộ của các em chưa được phát triển hoặc là chưa có đủ sự cấu tạo. Với xã hội ngày nay, nhiều người làm các công việc quảng cáo đã làm cho những cha mẹ nghĩ rằng bắt con cái học thật sớm là điều nên làm. Nhiều phụ huynh đã vội vã biến các em bé phải hành động như người lớn, và làm cho các em cảm thấy có lỗi nếu các em không làm được như mọi người. Rất tiếc là điều này đem lại sự ngược như ý muốn. 

Những sinh hoạt của người lớn thường là những sự giống nhau, trong khi đó những sinh hoạt của trẻ em là những điều mới hay trừu tượng, đúng ra thì các em bé và trẻ em đều có sự va chạm với tất cả mọi thứ trong đời là lần đầu tiên. Các em bé sinh ra và chào đời với những mới mẻ và lúc nào cũng muốn được học hỏi thêm những thứ mới. Não bộ được tạo ra là để dẫn đưa đến những sự tìm hiểu mới và cùng lúc giúp não bộ phát triển. Thời gian khi các em còn ở trong bụng và khi mới sinh ra và thời gian giúp cho các em phát triển não phải.  Đây là thời gian giúp các em nhìn thấy những quang cảnh lớn của thế giới bên ngoài. Còn những gì liên hệ đến chi tiết não trái sẽ tự động đến với các em theo thời gian. Bắt em học sớm không những không tốt mà còn đem lại những nguy hại cho các em. Nói một cách khác dễ hiểu là, không có cha mẹ nào có thể nói là mình giúp cho con bằng cách là dậy cho chúng tập đọc trước khi mà các em tự mình đi vệ sinh. 

Cuộc sống của các trẻ em liên hệ đến sự phát triển của não phải nhiều hơn là não trái. Xã hội sống của chúng ta ngày nay mỗi lúc một tăng sự ngăn chặn sự phát triển não phải nơi trẻ em, và tôi tin rằng điều này làm các em trở thành những người lớn có não trái khỏe. Những điều trong thiên nhiên hay từ do tạo hóa là muốn cho chúng ta có sự thăng bằng khả năng của hai khối nào, tuy nhiên chúng ta làm rối loạn sự thăng bằng này và tạo ra môi trường làm sự phát triển não bộ và sức khỏe bị nghiêng về một bên, và điều này gây ra sự đe dọa đến sự phát triển sức khỏe của con em chúng ta. 

Não bộ theo tự nhiên là phát triển theo thứ tự. Lúc nào cũng có sự tranh giành của hai khối não để coi não phía bên nào khỏe hơn. Sự tranh giành này làm cho não bộ con người được đặc biệt hơn, tuy nhiên nó cũng làm cho có thêm sự rủi ro. Nếu chúng ta có sự chênh lệch não bộ và một bên quá khỏe hơn bên kia nhiều, thì nó sẽ làm cho bên kia yếu mãi cho đến khi phía bên nào yếu không thể tự khỏe lên, và sự thiếu thằng bằng này mỗi lúc một nhiều hơn với thời gian.  Điều này làm giảm đi khả năng của con người đối với xã hội chung quanh.

Khi các em nhỏ có sự chênh lệch khả năng não bộ thì các em sẽ bị có nhiều thêm sự chênh lệch não bộ vào tuổi trưởng thành. Những điều này sẽ được truyền sang con cái. Tôi tin rằng đây là nguồn gốc làm tăng sự rủi ro bị tự kỉ hay những căn bệnh khác, chẳng hạn như béo phì và tiểu đường, đang có sự gia tăng rất lẹ ở khắp nơi trên thế giới. Môi trường và những cách sinh hoạt cộng với những gì có thể đến từ di truyền, có thể sẽ được truyền sang cho thế hệ kế tiếp. 

Tôi không phải là người duy nhất có cách nhìn như đã trình bày trên. Bác sĩ Iain McGilchrist là bác sĩ tâm thần và cũng là tác giả của tác phẩm The Master and His Emissary: The Divided Brain and the Making of the Western World, cho thấy là cuộc sống hiện đại làm cho chúng ta có các suy nghĩ của não trái và tạo ra những căn bệnh thần kinh, và trở thành những người không có vui vẻ. 

Tôi tin là sự gia tăng của bệnh tự kỷ hay là những bệnh liên hệ đến hệ thống thần kinh giống tương tự là kết quả của môi trường sống tạo ra, và điều này là một đánh thức cho chúng ta, và chúng ta cần để ý đến môi trường sống của mình. Chúng ta cần tìm hiểu về thế giới chung quanh và liên kết mọi người lại với nhau. Chúng ta cần phải có sự thăng bằng giữa cái mới và cái cũ. Nói tóm lại là chúng ta cần lấy lại sự thằng bằng. 

Liên lạc:  BS. Đỗ Hoài Vincent, San Jose Brain Wellness Institute, 2360 McKee Rd, Ste 5, San Jose, CA 95116, USA. Telephone: (408)770-9798; Email: drvincentdo@gmail.com ; www.SanJoseBrainWellnessInstitute.com ; Blog: sanjosebrainwellnessinstitute.blogspot.com

Friday, September 10, 2021

Làm Cho Các Phản Xạ Sơ Sinh Mất Đi

Nếu quý vị nhìn thấy có sự hiện diện của các phản xạ sơ sinh ở lúc 6 tháng tuổi, quý vị có thể giúp làm cho chúng mất đi rất dễ dàng. Cách làm cho chúng mất đi là sử dụng chúng. Lý do làm cho chúng vẫn còn là vì không có sử dụng chúng. Đối với các trẻ thơ, việc làm cho các phản xạ sơ sinh mất đi thì cũng giống như là khi quý vị truy tìm chú. Quý vị cứ tiếp tục làm cho các phản xạ sơ sinh hiện lên và cố làm tiếp từ 5 đến 10 lần cho tới khi chúng mất đi. Khi thấy chúng mất đi thì quý vị ngưng. Nhưng và giờ đồng hồ sau đó thì lại làm tiếp. Làm như vậy vài lần mỗi ngày cho đến khi nào chúng không còn hiện lên nữa.

Phản xạ sơ sinh(root and suck):  Phản xạ sơ sinh đầu tiên em bé cần có đó là phản xạ sơ sinh "root and suck", cũng còn gọi là phản xạ bú sữa mẹ. Khi vùng da chung quanh miệng của em bé cảm giác thấy sự đụng chạm thì sẽ làm cho miệng của em bé có phản xạ muốn bú sữa. Lúc này thì em bé mở miệng ra và quay về vì bên phía mới có sự đụng chạm vào miệng. Phản xạ này giúp cho em bé tìm đúng chỗ và bắt đầu bú sữa mẹ. Có nhiều người mẹ gặp nhiều khó khăn cho con bú sữa mẹ bởi vì phản xạ này không được thành lập nơi em bé. Điều này đưa đến sự thiếu khả năng tự sống còn bởi vì em bé không thể tự nút sữa. Trong mặt khác, phản xạ này sẽ tự động mất đi khi em bé không còn cần đến nữa. 

Con của quý vị phải có sự phối hợp trong khi bú và sự kéo mạnh của miệng để cho có sữa. Quý vị có thể thử bằng việc dùng núm vú nhựa. Để giúp truy tìm phản xạ sơ sinh bú sữa mẹ, quý vị có thể dùng ngón tay của mình và đụng nhẹ vào má của em bé, gần ngay góc môi giữa môi trên và dưới, và dùng ngón tay của quý vị đụng nhẹ vào má và di chuyển vào góc môi. Khi làm như vậy thì em bé sẽ mở miệng về phía bên miệng mới bị va chạm và sẽ ngậm vào núm vú. Quý vị sẽ thấy có sự muốn giữ lại khi muốn kéo núm vú ra khỏi miệng em bé. Quý vị sẽ biết khi phản xạ bú sữa mẹ vẫn còn khi em bé mở miệng qua phía bên mới có sự đụng chạm vào miệng, hay là những sự di động của các cơ bắp thịt chung quanh miệng, môi, hay là mặt. Những điều này phải mất đi vào khoảng bốn đến sáu tháng. Có nhiều lúc có những trục trặc và phản xạ bú sữa này không tự mất đi. Để giúp cho nó mất đi thì quý vị cần phải thường xuyên đụng vào góc miệng của em bé vài lần mỗi ngày cho đến khi nó không còn nữa. Nếu nó không mất đi thì em bé sẽ cứ muốn ngậm núm vú cao su hoài, và điều này làm ảnh hưởng đến khả năng nói.

Các dấu hiệu báo động liên hệ đến chậm phát triển não bộ: 

1) Dấu hiệu đầu tiên là các cơ bắp thịt quá yếu. Điều này có thể cảm nhận được khi em bé không có nhiều sức để bú sữa mẹ. 

2) Con của quý vị phải có khả năng lăn qua cả hai phía vào khoảng ba tới năm tháng tuổi. Nếu điều này không xảy ra đúng thời gian thì đây là dấu hiệu của sự chênh lệch não bộ đã xảy ra. Khi em bé chỉ lăn qua một phía duy nhất thì cũng là dấu hiệu của sự chênh lệch não bộ. 

3) Con của quý vị có những triệu chứng liên hệ đến tiêu hóa. Có thể là con của quý vị bị bón, có vấn đề liên hệ đến sữa công thức, nhất là sữa bò hay sữa làm từ đậu nành. Con của quý vị có thể bị ợ. 

4) Con của quý vị có thể bị nổi ghẻ ngứa eczema hay bị nhiễm trùng lỗ tai kinh niên. 

5) Con của quý vị phải có sự bò bằng cùi chỏ rồi sau đó bò bằng hai bàn tay và đầu gối. Bò bằng cùi chỏ giống như là những người trong quân đội bò, dùng hai cùi chỏ bò trong khi bụng sát đất và chân cũng sát đất. Cách bò này xảy ra vào khoảng bẩy tới chín tháng. Con bò bằng hai bàn tay và đầu gối thì bụng phải hổng trên mặt đất. Cách bò này xảy ra từ lúc 8 đến 12 tháng. Còn những điều khác như lết bằng mông, lăn thay vì bò, hay là bò trong khi có một chân phải lết theo, thì đây là những điều không tốt. 

6) Bỏ hoặc trốn bò hay là đi quá sớm cũng là những dấu hiệu đáng lo ngại. Các em bé thông thường sẽ đi từ lúc 11 đến 13 tháng. Theo kinh nghiệm, đi sớm hơn hay trễ hơn khoảng tuổi này cho thấy có sự chậm phát triển. Điều này khác với sự suy nghĩ của nhiều bác sĩ khác là các em đi vào khoảng 11 đến 16 tháng. Nếu em bé sanh thiếu tháng thì thời gian đi sẽ được kéo dài ra. Nếu em bé sanh thiếu một tháng, thì em bé biết đi vào lúc 14 tháng tuổi là chuyện bình thường. 

Phản xạ sơ sinh Moro:  Đây là phản xạ làm cho các em bé giật mình. Khi các em nghe tiếng động lớn thì sẽ giật mình. Phản xạ này sẽ bị khởi động khi các em có cảm giác bị ngã về phía sau. Phản xạ này giúp cho các em bám vào cha mẹ để giúp cho các em không bị té hay bị rớt xuống. Để thử phản xạ này, quý vị để hai tay của các em gác chéo nhau trên ngực rồi sau đó vỗ tay thật lớn, hay là tạo ra một tiếng động lớn. Lúc này thì em bé sẽ giật mình, và thông thường là cả hai tay và chân sẽ mở ra, và đầu và lưng sẽ ưỡn ra phía sau, sau đó em bé sẽ hít sâu hơi thở và trở lại vị trí cũ. Điều này xảy ra rất lẹ. Tiếng động sẽ tạo ra sự căng thẳng trong cơ thể của các em, và có thể làm các em đỏ mặt hay khóc.

Một cách khác để thử phản xạ giật mình khi em bé đang nằm trên nệm. Quý vị dùng tay nâng đầu và hai bả vai của bé cao hơn mặt nệm một chút. Lúc này hai tay của bé sẽ co lại và nằm trên ngực. Sau đó quý vị nhẹ nhàng cho đầu và hai bả vai của bé nằm lại xuống đệm. Lúc này thì tay sẽ mở ra. Một cách khác để thử là ôm bé chặt vào người của quý vị trong tư thế mặt đối diện, và dùng tay đỡ phía sau đầu của bé. Sau đó quý vị lẹ làng cong người của mình về phía trước một chút, và điều này làm cho bé tưởng là bị rớt xuống. Lúc này thì tay của em bé sẽ mở tung ra, hay là ít ra có chút ít sự mở tay ra. Sau đó quý vị trở lại vị trí cũ.

Khi mà quý vị thấy phản xạ giật mình có sự không đồng đều, chẳng hạn như chỉ có một tay tung ra và bàn tay cứ tiếp tục mở, thì điều này cho thấy não bộ có sự chênh lệch khả năng. Phản xạ giật mình nếu không tự mất đi thì coi là sự chậm phát triển não bộ. Nếu không có phản xạ giật mình hay là phản xạ không đủ thì điều đó cho biết là não bộ chưa đủ trưởng thành hay là có thể bị thương tích. Phản xạ giật mình sẽ tự mất đi một khoảng bốn đến sáu tháng. Nếu không mất đi thì đây là dấu hiệu của sự phẩm chậm phát triển của hệ thống thần kinh. Để giúp cho phản xạ này mất đi thì tập phương pháp gọi là "cá sao biển". Phương cách tập này đòi hỏi cha mẹ phải giúp đỡ các em. 

Tập phương cách cá sao biển: Quý vị cho các em ngồi trên ghế với cổ tay và mắt cá phía bên phải bắt chéo và chồng lên phía bên trái của cổ tay và mắt cá phía bên trái. Hai bàn tay thì phải nắm lại. Sau đó nói con của quý vị hít sâu vào và cùng lúc duỗi thẳng hai tay và hai chân ra trong khi đầu vào lưng ưỡn ra phía sau. Con của quý vị ở trong tư thế này từ 5 đến 7 giây và giữ hơi thở đã hít vào lúc nãy. Sau đó thì thở ra và trở lại tư thế cũ, nhưng với cổ tay và mắt cá phía bên trái chồng lên phía bên phải. Làm như vậy khoảng 6 lần liên tiếp, vài lần mỗi ngày, cho đến khi hết bị phản xạ giật mình.

Phản xạ sơ sinh nhột lưng (Galant): 

Đây là phản xạ giúp cho trẻ em chui qua kênh sanh để ra ngoài khi sinh ra. Phản xạ này cũng giúp cho các em bé lật người hay lăn qua lăn lại. Phản xạ này có thể được kích thích bằng cách là dùng ngón tay đụng lên lưng một bên của cuộc sống và kéo dài từ xương cánh tay cho tới lưng quần. Khi làm như vầy thì sẽ làm cho con quý vị co người về phía bên mới bị đụng và làm thành hình chữ C. Đối với các em bé lớn hơn thì nói các em chống hai tay và đầu gối trên sàn nhà như ở trong tư thế chuẩn bị bò, sau đó dùng ngón tay đụng vào một bên cách cột sống khoảng 1 inch (2.54 cm) và nhanh chóng kéo dài từ trên xuống. Phản xạ này sẽ mất đi vào lúc 4 đến 6 tháng tuổi. Nếu không mất đi thì cứ đụng hoài vào phía bên bị nhột cho tới khi hoàn toàn mất đi. Những người lớn cũng có thể làm động tác này nếu vẫn còn bị có phản xạ nhột lưng. 

Cách tập giúp cho mất phản xạ nhột lưng: cách tập này còn có tên gọi là thiên thần trong tuyết (angels in the snow). Cái này tập thì các em phải nằm trên nền nhà hay là mặt phẳng và mặt thì nhìn lên trời, tay và chân phải thẳng với cơ thể. Sau đó con của quý vị sẻ hít thở vào và cùng lúc hai cánh tay và hai chân mở ra, hai tay thì di chuyển trên nền nhà và hai bàn tay sẽ đụng nhau khi giơ lên cao hơn đầu. Mục đích của các tập này là làm cho các con của quý vị di chuyển hai tay và hai chân cùng lúc trong tốc độ chậm. Sau đó thì thở ra và cho tay trên trở về vị trí cũ. Làm động tác này vài lần mỗi ngày cho đến khi phản sợ nhột lưng không còn nữa.

Phản xạ sơ sinh nắm tay lại: từ lúc mới sinh ra, các em sẽ nắm lấy ngón tay của quý vị và không muốn bỏ ra khi mà quý vị đụng lòng bàn tay của các em. Đây là điều bình thường trong vài tháng tuổi đầu. Tuy nhiên nếu các em cứ tiếp tục nắm tay lại thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng điêu luyện của các ngón tay. Điều này có thể làm các em giảm khả năng cầm bút. Hay là không cầm đúng cách được. Rất nhiều trẻ em có vấn đề này cần phải dùng viết chì thật lớn và thường gặp trở ngại khi viết chữ. Phản xạ nắm tay lại thông thường sẽ mất đi vào thời gian 4 đến 6 tháng tuổi cho bàn tay và 6 đến 12 tháng tuổi cho bàn chân. Phản xạ này tự nhiên sẽ được thay thế bằng những vận động với lấy hay nắm lại của bàn tay. Quý vị thử từng bàn tay một của các em bằng việc dùng ngón tay của mình và nhẹ nhàng đụng và kéo ngón tay của quý vị trên bàn tay của các em từ phía ngoài vào giữa lòng bàn tay, làm từ bốn phía đi vào giữa. Sự phản xạ sẽ làm các em nắm bàn tay lại. Quý vị mở tay các em ra và làm lại như vầy thêm vài lần. Thử cả hai bàn tay. Làm cho tới khi nào các em hết nắm tay lại thì thôi.

Phản xạ nơi bàn chân (plantar reflex): phản xạ này còn gọi là "Babinski sign", phản xạ này hơi khác với phản xạ nắm tay lại. Để thử phản xạ này quý vị dùng một tay giữ mắt cá của một chân của em bé, và tay kia thì dùng ngón tay đụng nhẹ phía bên ngoài nhưng dưới lòng bàn chân và kéo dài từ gót chân lên đến các ngón chân, nhưng không được đụng vào chỗ hỏm của bàn chân nơi gọi là trái chanh. Đường đụng lòng bàn chân gần giống như là hình chữ C. Thử từng chân một và dùng sự chạm vào chân cho giống nhau để không làm cho bé có cảm giác bị nhột. Nếu phản xạ nơi bàn chân vẫn còn thì ngón chân cái sẽ nhõng ngược lên phía đầu và các ngón chân xòe ra và đồng thời cũng nhõng lên phía đầu nhưng không nhiều bằng ngón chân cái. 

Phản xạ nơi bàn chân sẽ có từ lúc mới sinh ra cho đến thời gian cuối 12 tháng tuổi. Khi phản xạ nơi bàn chân mất đi thì các ngón chân sẽ đi xuống mỗi khi bị đụng giống như là cách thử vừa trình bày trên. Đây là cách thử rất hữu hiệu để biết về sự phát triển của hai khối não. Tất cả các ngón chân của một bàn chân đi lên và tất cả các ngón chân của chân kia đi xuống, thì điều đó cho thấy có sự chậm phát triển của não bộ bên chân của các ngón chân đi xuống. Nếu mà có sự chậm triễn của một bên chân nhiều hơn chân kia, thì đó là dấu hiệu của sự chậm phát triển hay là có sự chênh lệch khả năng của não bộ. Để làm mất phản xạ nơi bàn chân thì cứ dùng tay đụng vào bàn chân nhiều lần cho tới khi nào chúng hoàn toàn mất đi. Làm như vậy nhiều lần mỗi ngày. Đối với các em lớn tuổi thì nói các em dùng con chân bốc đồ trên sàn nhà hay từ mặt đất, nên dùng chân khác bên của khối nào bị yếu. Điều này sẽ giúp làm kích thích khối não bị yếu. Việc này sẽ khó hơn sử dụng bàn tay, cho nên sẽ có nhiều hiệu nghiệm hơn khi kích thích phần não ngược bên.

Phản xạ sơ sinh: Phản xạ cổ không đều- Phản xạ cổ không đều là một trong những phản xạ sơ sinh thường hay thấy nơi tự kỷ autism. Đây là phản xạ mà nhiều nhà chuyên môn cho là rất quan trọng giúp cho trẻ em chui qua đường kênh sanh để đi ra ngoài. Phản xạ này giúp cho các em bé vặn người để lật và giúp các em trườn và bò. Nếu các em bé không bò đúng vào thời hạn, hay là không có bò, thì thông thường là phản xạ sơ sinh này chưa mất đi. Phản xạ này có cho đến lúc 3 tới 4 tháng tuổi, sau đó thì phản xạ này sẽ tự mất đi. Nếu phản xạ này không tự mất đi và vẫn còn sau 6 tháng tuổi, thì đây là điều không bình thường và cần được kiểm tra bởi các bác sĩ chuyên môn. Điều này có thể là dấu hiệu của chấn thương não bộ, nhưng thông thường là dấu hiệu của sự chậm phát triển não bộ, hay là có sự chênh lệch khả năng của não bộ. Nếu phản xạ này có nhiều một bên hơn là bên kia, thì sẽ tạo ra sự chênh lệch phát triển của hệ thống thần kinh, và điều này làm cho em bé chỉ có thể lăn qua được một bên. 

Để làm cho phản xạ này hiện lên, quý vị để em bé nằm ngửa trên mặt phẳng. Sau đó thì nhẹ nhàng quay đầu em bé sang một bên và giữ yên 10 giây để tạo sự di chuyển nơi hai tay và chân. Quý vị cần vài giây đồng hồ để thấy sự phản sợ bắt đầu, nếu giữ đầu nằm yên thì sẽ dễ thấy tay chân di chuyển hơn. Em bé sẽ bắt đầu thẳng tay và chân phía bên đầu đang xoay sang, và sau đó công cùi trỏ và đầu gối của tay chân phía bên kia. Sau đó quý vị nhẹ nhàng quay đầu của bé sang phía bên kia, nhớ là phải làm nhẹ nhàng, bởi vì quý vị không muốn tạo ra sự thương tích nơi cổ của bé. Sự phản xạ này là bình thường cho tới khi bé được 4 tới 6 tháng tuổi. Nếu sau 6 tháng tuổi mà vẫn còn thấy bé có phản xạ này thì đây là điều không bình thường. Quý vị thường xuyên làm động tác này cho bé thì phản xạ này tự động sẽ mất đi. Làm vài lần mỗi ngày cho tới khi thấy chúng hết xuất hiện. Đối với các em lớn hơn hay là người lớn thì quý vị có thể tập luyện theo sự hướng dẫn bên dưới.

Fencer excercise: Cách tập này hơi có chút rắc rối nhưng không khó lắm. Con của quý vị ngồi trên ghế và quay đầu về phía bên trái và phải, hay là về phía mà thấy có sự phản xạ. Khi con của quý vị quay đầu qua bên phải, thì tay và chân phải thẳng ra, lúc này thì mắt nhìn vào bàn tay. Trong lúc này cùi trỏ và đầu gối của tay chân phía bên trái thì cong lại. Sau đó thì em bé trở lại vị trí cũ ở giữa, và làm lại động tác. Làm liên tiếp ba lần. Khi làm động tác này đúng và làm chậm thì làm ba lần mỗi ngày là đủ. Làm cho tới khi nào hết thấy phản xạ này hiện lên thì thôi.

Hai phản xạ cơ thể cần phải để ý: Cũng giống như tôi đã trình bày, đối với các trường hợp phát triển bình thường thì các phản xạ sơ sinh sẽ dần dần biến mất đi, rồi sau đó được thay thế bằng các phản xạ cơ thể. Tuy nhiên điều này không thường xảy ra với trường hợp tự kỷ autism. Đối với các em tự kỉ, phản xạ cơ thể thông thường là bị chậm phát triển bởi vì các phản xạ sơ sinh vẫn còn xuất hiện. Khi mà em bé ngồi thẳng mà không bị ngã, hay là giơ tay ra đỡ khi bị ngã về phía trước, thì em bé đó đang sử dụng các phản xạ cơ thể. Đây là dấu hiệu cho thấy em bé đó đã làm mất đi được hết các phản xạ sơ sinh, và đang có sự phát triển đúng. Sau đây là hai phản xạ cơ thể cần phải được kiểm tra nơi các em đang lớn. Không giống như các phản xạ sơ sinh sẽ mất đi vào khoảng sáu tháng tuổi, những phản xạ cơ thể sẽ phát triển sau đó và sẽ giữ mãi cho suốt cuộc đời.

Phản xạ cơ thể về phía bên hông: Khả năng giơ tay ra để chống khi ngã về phía bên trái hoặc phải rất quan trọng giúp cho các em bé khi học ngồi, và phản xạ này sẽ phát triển từ lúc 5 đến 7 tháng tuổi. Để thử phản xạ này, quý vị có thể quỳ sau lưng trong khi em bé đang ngồi và sau đó đặt hai tay của quý vị lên hai vai của bé. Sau đó dùng một tay đẩy bé sang một bên trái hoặc phải, để làm bé mất thăng bằng. Trong lúc đó thì tay kia vẫn giúp giữ cho bé không bị ngã. Khi bé bị đẩy sang một bên thì sẽ dùng cánh tay của phía bên bị đẩy sang để đỡ cho không bị té ngã. Nếu bé có phản sợ một bên nhưng không có bên kia, thì điều này cho thấy có sự phản sợ về phía bên hông không đều, và đây có thể là dấu hiệu ban đầu của sự phát triển não bộ không đều.

Phản xạ cơ thể về phía trước: Khi trẻ em chạy và bị té thì hai tay sẽ tự động tung ra về phía trước để giúp đỡ cho mặt không bị đập xuống đất. Để thử coi con của quý vị có phản xạ này hay không, quý vị ôm con của quý vị rồi sau đó lẹ làng cong mình về phía trước để tạo cho con của quý vị có cảm giác như là bị té về phía trước, lúc này thì con của quý vị sẽ giơ hai tay ra để đỡ. Đây là phản xạ cơ thể về phía trước và là một trong những phản xạ cuối cùng phát triển. Phản xạ này thông thường sẽ phát triển vào lúc 8 đến 9 tháng tuổi. Trước khi phản xạ này phát triển thì em bé sẽ giữ hai cánh tay vào cơ thể của chính các em hay là bám vào tay của quý vị.

Chuẩn bị tập luyện: Khi mà các phản xạ sơ sinh đã mất hết và các phản xạ cơ thể được phát triển, thì quý vị có thể ngưng tập luyện các phương cách giúp cho phản xạ. Nếu các phản xạ sơ sinh vẫn còn sau tuổi ấn định, hay là các phản xạ cơ thể bị chậm phát triển, thì điều đó thông thường có liên hệ đến các phản xạ sơ sinh vẫn còn chưa hết. Khi mà các bác sĩ đã xác nhận là con của quý vị không có bị chấn thương não hay chấn thương hệ thống thần kinh, thì tôi khuyên quý vị nên tìm những người chuyên môn có hiểu biết về sự thăng bằng của não bộ hay là trong khoa functional neurology để được hướng dẫn với nhiều cách tập luyện và chữa trị khác. Chúng ta có thể không chẩn bệnh tự kỉ autism được vào lúc sáu hay tám tháng tuổi, nhưng những gì liên hệ đến mức độ phát triển là những điều cho chúng ta hiểu biết thêm về sự đang phát triển của con mình.

Liên lạc:  BS. Đỗ Hoài Vincent, San Jose Brain Wellness Institute, 2360 McKee Rd, Ste 5, San Jose, CA 95116, USA. Telephone: (408)770-9798; Email: drvincentdo@gmail.com ; www.SanJoseBrainWellnessInstitute.com ; Blog: sanjosebrainwellnessinstitute.blogspot.com

Tuesday, September 7, 2021

Phát hiện các dấu hiệu tự kỷ sớm

Rất nhiều các bác sĩ nói là tự kỷ không thể chẩn đoán được cho tới lúc hai tuổi, hai tuổi rưỡi, ba, hoặc là bốn tuổi khi mà các triệu chứng hiện ra rõ ràng, chẳng hạn như con của quý vị không có sự giao tiếp mắt, không chơi với bạn, không nói chuyện, không thích được ôm ấp. Lúc này thì quý vị thấy con mình khác hẳn các trẻ nhỏ khác.

Theo kinh nghiệm thì những điều này không phải là như vậy. Các nhà nguyên cứu cũng cho biết là tự kỷ có thể được khám phá rất sớm, và điều này cho chúng ta rất nhiều cơ hội để giúp cho các em. Thật ra các nhà nguyên cứu cho biết là tự kỷ có thể được khám phá sớm nhất vào lúc sáu tháng tuổi. Các nhà nguyên cứu từ đại học University of Florida, Osnat và Philip Teitelbaum, PhD cho biết là họ có thể biết về tự kỷ trong tương lai qua việc nhìn các em tiếp xúc với môi trường xung quanh. Các em bé trở thành tự kỷ là những em có khả năng lật người và không thể ngồi một mình khi được sáu tháng tuổi, đây là những khả năng rất thông thạo đối với những em bình thường cùng tuổi. Đây là dấu hiệu các em bé vẫn còn có các phản xạ sơ sinh, và điều này làm cho các phản xạ cơ thể không phát triển được. Điều này có nghĩa là khả năng vận dụng các cơ bắp thịt không phát triển theo kịp giai đoạn, và các em bị chậm phát triển.

Gần đây nhất là nguyên cứu từ Kennedy Krieger ở Baltimore cho biết kết luận cũng tương tự. Các nghiên cứu trên những em bé có rủi ro tự kỷ cao cho thấy 90% các em sau này bị chẩn bệnh tự kỷ đã không thể tự nâng cổ lên được khi kéo các em trong tư thế đang nằm thành tư thế ngồi (giống như là đầu các em quá nặng, hay là cổ quá yếu).

Bác sĩ John Constantino từ đại học University of Washington cho biết là sự không phối hợp được các di chuyển của tay chân hay là các cơ bắp thịt là những triệu chứng giúp chẩn đoán bệnh tự kỷ vào giai đoạn tuổi rất nhỏ. Những em bé bình thường sẽ không có vấn đề này. Khi quý vị thấy các em thật nhỏ có những sự di chuyển tay chân không đồng đều, chẳng hạn như chỉ dùng một tay, hay là chỉ lăn qua một bên, thì đó là sự chênh lệch khả năng của não bộ. Rất nhiều các bác sĩ nhi đồng nói với quý phụ huynh là các bước phát triển không có quan trọng, và các em sẽ tự phát triển sau này. Điều này chỉ đúng một phần nhỏ. Các bước phát triển milestones rất là quan trọng. Đây là những dấu hiệu cho thấy não bộ đang có sự phát triển bình thường. Từ lúc con của quý vị mới sinh ra quý vị nên chú ý kỷ vào các bước phát triển. Con của quý vị có tự lật người không? Có ngồi không? Có bò không? Có đi không? Và có nói đúng theo thời gian không? Con của quý vị có những di chuyển tự nhiên khi còn thật bé không, và con của quý vị có theo kịp những trẻ nhỏ khác cùng lứa tuổi không? Nếu con của quý vị có trở ngại về sự di chuyển của các cơ bắp thịt, thì sẽ có bị chậm phát triển đến những bộ phận khác trong cơ thể, chẳng hạn như hệ thống tiêu hóa, và sự chênh lệch đến hệ thống đề kháng và nội tiết, những điều này cần được giải quyết. Cách tốt nhất và sớm nhất để kiểm tra sự phát triển người con của quý vị là kiểm tra các phản xạ sơ sinh.

Tại sao các phản xạ sơ sinh lại quan trọng? Các phản xạ sơ sinh là những căn bản cần thiết giúp cho trẻ thơ sống còn. Các em bé bắt đầu cuộc đời với não bộ rất là nhỏ bé, và chỉ có phần cốt não brainstem và thêm một chút cơ bắp thịt. Đây là lý do tại sao các phản xạ sơ sinh cần phải có. Những phản xạ sơ sinh không cần phải có sự suy nghĩ, chúng giúp cho các em bé tự nhiên thở, tự biết ăn khi đói, tư ưởn mình và khóc khi khó chịu, tự bị nhột khi có ai thọc lét. Mỗi phản xạ đóng một vai trò cần thiết cho sự phát triển của thai nhi và em bé, và làm sự lót đường cho những bước phát triển kế tiếp trong những giai đoạn phát triển ban đầu. Từ lúc ba tới năm tháng, những phản xạ sơ sinh cho thấy có sự thay đổi đầu tiên và cũng là bước quan trọng nhất trong giai đoạn phát triển đó là sự lật người. Các phản xạ sơ sinh rất quan trọng kể cả trước khi sinh ra. Những phản xạ sơ sinh này được phát triển ngay khi còn lúc đang ở trong bào thai để giúp thai nhi chui qua đường kênh sanh để chào đời. Nếu các phản xạ sơ sinh có trục trặc thì em bé sẽ có trở ngại khi sinh ra bằng cách tự nhiên. Sanh ngược chiều (Breech) là dấu hiệu cho thấy các phản xạ sơ sinh không làm việc đều hai bên. Còn khi sinh ra bằng cách mổ bụng C-section thì điều này có nghĩa là em bé đã bị lỡ cơ hội sử dụng những phản xạ sơ sinh ban đầu. Đối với những trường hợp này, các bác sĩ sản khoa hay nhi đồng cần truy tìm các triệu chứng liên hệ đến sự chênh lệch khả năng não bộ ngay sau khi sinh ra, nhưng tiếc rằng điều này rất ít khi xảy ra.

Sự di chuyển của các cơ bắp thịt là chìa khóa giúp cho sự phát triển khỏe mạnh của não bộ. Điều này giúp làm cho các gene làm não bộ phát triển và làm cho các tế bào thần kinh neurons lớn mạnh thêm, và từ đó liên lạc được với nhiều tế bào thần kinh neurons khác, điều này giúp trẻ em phát triển được đến bước kế tiếp và kế tiếp. Khi não bộ được lớn mạnh hơn và có nhiều sự liên lạc, thì lúc đó não bộ sẽ có khả năng cao hơn và từ đó giúp cho các em bé biết được thêm nhiều thứ. Khi mà não bộ của trẻ em có thêm nhiều sự liên lạc nơi các tế bào thần kinh neurons thì lúc đó não bộ sẽ không cần đến các phản xạ sơ sinh nữa. Lúc này thì não bộ sẽ chuẩn bị cho những khả năng vận động khó hơn, và những phản xạ mới này gọi là phản xạ cơ thể (postural reflexes). Lúc khoảng bốn đến sáu tháng tuổi thì các phản xạ sơ sinh sẽ dần dần mất đi và được thay thế bằng phản xạ cơ thể. Phản xạ cơ thể giúp hai bên của cơ thể di chuyển liên tiếp hay nối tiếp với nhau. Đây là điều giúp cho chúng ta đứng được bằng hai chân, và đi thông thả và đều. Khi các em bé có những khả năng này vào khoảng một tuổi, thì các em sẽ tự động đứng dậy và đi. Các phản xạ sơ sinh không khi nào mất đi hoàn toàn, và chúng lệ thuộc vào sự điều khiển của não bộ. Não bộ điều khiển các phản xạ sơ sinh bằng cách làm cho chúng di chuyển đều và phối hợp theo nhịp điệu. Nếu các em bé không di chuyển đủ để giúp kích thích các gene xây dựng não bộ, các phản xạ sơ sinh sẽ không được ngăn chặn. Nếu các phản xạ sơ sinh không được ngăn chặn thì não bộ sẽ không được phát triển theo thứ tự. Khi mà có bất cứ điều gì làm ảnh hưởng đến sự phát triển theo thứ tự của não bộ thì sẽ có thêm sự rủi ro não bộ bị chênh lệch khả năng. Lý do đưa đến vấn đề này là bởi vì não bộ không thể nhảy từ bước này sang bước khác được. Nếu mà não bộ có sự chậm trễ xây dựng một năng khiếu quan trọng, thì nó sẽ không thể đi ngược lại để làm lại công việc đó. Khi mà cơ hội đã bị mất thì không thể có lại được nữa. Đây là điều tạo ra sự bắt đầu chênh lệch khả năng não bộ. Tùy theo sự chênh lệch khả năng của não bộ tạo ra sự chênh lệch như thế nào, nếu mà có nhiều bước bị thiếu hụt, thì có thể đưa đến trường hợp tự kỷ hay là bất cứ trường hợp nào ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh. Tuy nhiên chúng ta có thể giúp sửa chữa hay ít ra là làm tốt hơn sự phát triển trong tương lai. Khi chúng ta giúp cho các em sớm chừng nào thì sẽ dễ dàng hơn khi giúp tạo lại sự thăng bằng và phát triển tốt hơn cho các em. Kiểm tra những phản xạ sơ sinh và những phản xạ cơ thể là những điều rất quan trọng giúp xác định mức độ bệnh của các em. Đa số các phản xạ sơ sinh đều hoạt động vào lúc các em mới sinh ra, nhưng từ từ lặn đi vào khoảng sáu tháng tuổi, và sau đó được thay thế bằng những di chuyển có sự chủ động hay là những di động.

Có thể là quý vị vẫn còn có một số phản xạ sơ sinh đang làm việc, nhất là khi quý vị có bị nghiêng về một số cá tính giống như tự kỷ hay là khi quý vị có nhiều bệnh, hay là khi quý vị có sự chênh lệch khả năng não bộ. Tôi đã có dịp nhìn thấy những điều này nơi các người lớn. Những người này có kể cho tôi nghe về những câu chuyện nói về sự khó khăn của hệ thống thần kinh của họ lúc còn bé, và ngày nay chúng ta có thể xếp loại và những trường hợp phát triển không bình thường của hệ thống thần kinh. Tôi đã tìm thấy các phản xạ sơ sinh vẫn còn nơi các em tự kỷ lớn tuổi, và điều này làm cho tôi có thể nói rằng đa số các em tự kỷ lớn tuổi vẫn còn có các phản xạ sơ sinh. Điều đáng mừng là việc làm cho mất đi các phản xạ sơ sinh nơi các em bé, nơi các em lớn tuổi, hay là nơi các người lớn không khó khăn lắm. Điều này rất là hữu ích bởi vì nó giúp làm giảm đi sự chênh lệch khả năng của hai khối não. Các phản xạ sơ sinh ghi chép trong sách vở kỹ lưỡng cho biết về sự quan trọng đối với các giai đoạn phát triển của trẻ nhỏ. Theo kinh nghiệm cho thấy thì các bác sĩ nhi đồng ít khi để ý đến điều này khi khám sức khỏe cho các em, có thể nói là sau sáu tháng tuổi thì chẳng còn bác sĩ nào để ý đến các phản xạ sơ sinh, lúc này thì đúng ra các phản xạ sơ sinh sẽ tự động mất đi. Các sách vở nói về hệ thống thần kinh trẻ em nói rằng sự hiện diện của các phản xạ sơ sinh sau sáu tháng tuổi là dấu hiệu não bộ có sự thương tích. Điều này cho thấy là các bác sĩ ít để ý đến các phản xạ sơ sinh mặc dù những phản xạ này cho biết được những dấu hiệu rất rõ ràng liên hệ đến sự phát triển của trẻ em theo từng giai đoạn.

Nếu một em bé bị chậm phát triển khả năng vận động, thì điều này phần lớn là do các phản xạ sơ sinh vẫn còn hiện diện. Điều này có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong năm đầu tiên, nhưng đặc biệt nhất là trong sáu tháng đầu. Quý vị nên hỏi các bác sĩ như đầu kiểm tra các phản xạ sơ sinh cho các em. Nếu người bác sĩ đó nói là không có làm công việc kiểm tra các phản xạ sơ sinh bởi vì chúng không có quan trọng thì tôi nghĩ là quý vị nên tìm bác sĩ khác. Cho dù bác sĩ có làm kiểm tra hay không, quý vị nên tự làm cho con mình. Điều này rất quan trọng cần biết là các phản xạ sơ sinh có làm việc hay nơi trẻ thơ hay không và khi nào chúng bắt đầu dần dần biến đi, thông thường là khoảng bốn tháng tuổi. Có khoảng hơn 30 phản xạ sơ sinh, nhưng chỉ có vài cái là liên hệ đến tự kỹ, và chúng ta cần để ý đến các phản xạ sơ sinh này. Tất cả các phản xạ sơ sinh này sẽ hiện diện đủ khi mới sinh ra. Tất cả các phản xạ sơ sinh này sẽ dần dần mất đi vào lúc bốn đến sáu tháng tuổi, ngoại trừ một phản sơ sinh gọi là plantar reflex mất đi vào khoảng một tuổi. Quý vị cần phải kiểm tra tất cả các phản xạ sơ sinh coi chúng có hiện diện đầy đủ lúc mới sinh ra hay không, rồi sau đó kiểm tra lại khoảng lúc bốn tháng tuổi coi chúng có đang dần dần mất đi hay không. Quý vị có thể thấy một số phản xạ sơ sinh sẽ hay hiện diện một bên của cơ thể. Điều này cho thấy là não bộ của một bên phát triển bình thường và bên kia thì không bình thường. Tình trạng này cũng có nghĩa là dây thần kinh bị thương hay là não bộ bị thương. Khi gặp điều này thì nên đưa bé đi khám bác sĩ. Thông thường thì các bác sĩ sẽ không tìm thấy điều gì không ổn, nhưng đây là điều không thể làm lơ được. Khả năng phát triển liên hệ đến sự vận động có nhiều ảnh hưởng, do đó rất quan trọng phải để ý đến điều này coi chúng có xảy ra đúng thời hạn hay không.

Nếu quý vị có các em lớn tuổi hơn, quý vị cũng nên kiểm tra coi các phản xạ sơ sinh có thật sự đã mất đi hết chưa. Nếu chưa thì quý vị dùng các phương cách tập luyện để làm cho chúng mất đi. Quý vị cũng có thể tự kiểm tra mình coi mình có mất hết các phản xạ sơ sinh chưa. Nếu chưa thì quý vị có thể tập những động tác để làm cho chúng mất đi.

Liên lạc:  BS. Đỗ HoàiVincent, San Jose Brain Wellness Institute, 2360 McKee Rd, Ste 5, San Jose, CA 95116, USA. Telephone: (408)770-9798; Email: drvincentdo@gmail.com ; www.SanJoseBrainWellnessInstitute.com ; Blog: sanjosebrainwellnessinstitute.blogspot.com

Saturday, September 4, 2021

Các triệu chứng và dấu hiệu có thể liên hệ đến bệnh tự kỷ nơi trẻ em

Nhiều phụ huynh đã liên lạc với chúng tôi và hỏi coi có cách nào giúp cho họ nhận ra các dấu hiệu liên hệ đến bệnh tự kỷ nơi các trẻ em thật là sớm hay không? Mặc dù chúng tôi không có một câu trả lời duy nhất, nhưng chúng tôi có thể trình bày những điều mà làm tăng sự rủi ro có con bị tự kỷ. Nếu mà quý vị và con của quý vị có nhiều điều bên dưới chừng nào thì sự rủi ro bị tự kỷ sẽ nhiều chừng đó. Tuy nhiên các điều rủi ro này không có nghĩa là con của quý vị sẽ bị tự kỷ. Quý vị nên lưu ý rằng môi trường sống đóng một vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của não bộ, do đó cho dù có nhiều rủi ro bị tự kỷ nhưng môi trường sống lành mạnh vẫn có thể giúp các trẻ em phát triển não bộ một cách lành mạnh như các trẻ em bình thường khác. Sau đây là một số điều làm tăng rủi ro trẻ em bị tự kỷ: 

1) Tuổi của cha mẹ cao hơn 35 và là lần đầu tiên có con. 

2) Con đầu lòng là con trai. 

3) Có những trở ngại lúc mang thai và lúc sinh con. 

4) Sinh thiếu tháng và trẻ bị thiếu cân. 

5) Bé phải dùng đến dưỡng dưỡng khí oxy ngay sau khi sinh ra. 

6) Bé bị xanh sao và yếu ớt trong vài tuần đầu sau khi sinh ra. 

7) Bé bị rơi vào một hoặc các trường hợp như sau: mù mắt, bại não (cerebral palsy), bị chấn thương khi sinh ra, bị giật kinh phong(seizures), bị tái xanh (blue baby), bị sốt cao, bị vàng da (jaundice), hoặc vấn đề nào kháclie6n hệ đến sức khỏe. 

8) Sinh đôi. 

9) Trong ba tháng đầu bé dễ bị nhiễm trùng, ngứa da, nhiễm trùng da, dị ứng da, khó khăn khi bú sữa, hay ói khi uống sữa, bị tiêu chảy táo bón hoặc cả hai. 

10) Có những phản ứng mạnh liên hệ đến thích hoặc ghét khi nhìn thấy ánh sáng đèn chói, hoặc đèn màu, hoặc khi nghe âm thanh lạ, hoặc là không hề có phản ứng nào với ánh sáng chói hoặc âm thanh lạ. 

11) Bé có thời giờ gian đã từng là một bé bình thường được vài tháng hoặc vài năm, hay là chưa bao giờ có hành vi bình thường. 

12) Bé không hề có những động tác chuẩn bị khi sắp được bố mẹ bế lên khi ở vào tuổi 4 đến 8 tháng. 

13) Bé có những động tác như lắc qua lắc lại hoặc là nhún khi nằm trong nôi. 

14) Bé biết đi quá sớm hoặc quá trễ. 

15) Bé biết đi nhưng không hề biết bò trước đó. 

16) Bé có những điều quá thông minh trong năm đầu tiên. 

17) Trong hai năm đầu cơ thể của bé có vẻ như cứng đơ khi được bế lên hoặc là tay chân có những sự di chuyển không bình thường khi được bê lên. 

18) Trước 3 tuổi bé không biết bắt chước làm theo người khác như là vẩy tay bye-bye. 

19) Trước ba tuổi bé có trí nhớ rất tốt như là nhớ các bài hát, nhớ các điệu nhạc, nhớ các quảng cáo tivi, nhớ tên, nhớ các nơi, nhớ các con đường ngõ hẻm, và vân vân. 

20) Bé giống như là bị điếc. 

21) 2 đến 4 tuổi, bé không nghe được các âm thanh lớn nhưng nghe rất tốt với các âm thanh nhỏ.

22) 2 đến 4 tuổi, bé cầm các đồ vật trong tư thế không bình thường. 

23) 2 đến 4 tuổi, bé thích chơi nhảy nhún, quay tròn, hoặc chơi cởi ngựa rất lâu.

24) 2 đến 4 tuổi, có lúc bé giống như là không nhìn thấy có người đang đứng trước mặt hoặc đi ngang.

25) 2 tới 5 tuổi, bé thèm ăn hoặc ngậm muối hoặc đồ ăn mặn hay là thích ngậm các đồ vật bằng kim loại. 

26) 2 đến 4 tuổi, bé chỉ thích ăn đồ ăn nóng hoặc lạnh, chỉ ăn một hoặc hai món đồ ăn, hay là không chịu uống nước bằng ly mà có nhìn thấy nước. 

27) Vào khoảng 3 đến 4 tuổi, bé có lúc như là trí óc đã thả hồn đi nơi khác mà trở nên rất khó khăn mới làm bé chú ý trở lại.

28) 2 tới 5 tuổi, khi bé được bế cơ thể của bé sẽ cứng ngắc hoặc là sẽ uốn và ôm theo cơ thể của người bế.

29) 3 tới 5 tuổi, bé thường hay dùng tay đánh vào đầu, đập đầu vào chân hoặc đầu người khác, đập đầu vào tường, sàn nhà, hoặc bàn ghế, và vân vân. 

30) 3 tới 5 tuổi, khả năng leo trèo, chạy nhảy, đi đứng, thăng bằng của bé không được tốt hoặc dưới trung bình. 

31) 3 tới 5 tuổi, bé thích xoay tròn. 

32) 3 tới 5 tuổi, khả năng sử dụng ngón tay không được bình thường hoặc rất khó. 

33) 3 tới 5 tuổi, bé thích quay vòng tròn các đồ vật như là nắp chai, đồng tiền, và vân vân. 

34) 3  tới 5 tuổi, bé có năng khíu cao hơn người thường khi chơi xếp hình, tính các bài toán số, tính ngày tháng của lịch, nhận dạng các nốt nhạc, ném hoặc chụp banh, hoặc vân vân. 

35) 3 đến 5 tuổi, bé hay nhảy lên xuống khi vui vẻ.

36) 3 đến 5 tuổi, bé hay xếp đồ đạc ngay ngắn và không muốn ai đụng vào. 

37) 3 tới 5 tuổi, bé không chịu dùng hai bàn tay một thời gian khá lâu. 

38) Trước 5 tuổi có lúc bé chỉ muốn nghe một đoạn nhạc hay là nhạc từ một album.

39) 3 tới 5 tuổi, bé thích tìm hiểu và những vật dụng có tính cách máy móc như là máy hút bụi hoặc nghịch lò bếp. 

40) 3 tới 5 tuổi, bé không nhìn vào mắt người đối diện khi người đó đang nói chuyện với bé. 

41) 3 tới 5 tuổi, bé nắm tay người lớn và dẫn đi lấy đồ, mở cửa, mở ti vi lên, hoặc vân vân.

42) 3 tới 5 tuổi, bé xa lánh mọi người, tự vui một mình.

43) 3 tới 5 tuổi, bé rất sợ người lạ hay một người nào đó, sợ tiếng động lớn, sợ đồ vật hoặc một loài thú vật nào. 

44) 3 tới 5 tuổi, bé dễ bị té hoặc bị thương khi chạy hoặc leo trèo. 

45) 3 tới 5 tuổi, bé có thể tự gây thương tích cho mình, hoặc cho người khác bằng cách đánh, cắng, nhéo, và vân vân. 

Bên trên là một số dấu hiệu và triệu chứng thường gặp ở những em bé có nhiều rủi ro trở thành tự kỷ, điều này không có nghĩa là sẽ trở thành tự kỷ. Lý do đưa đến các hiện tượng này thì rất nhiều. Điều tôi muốn quý vị nhớ đây là những triệu chứng khi mà não bộ và cơ thể của các em không phát huy được hết khả năng làm việc. Điều liên hệ rất trực tiếp với não bộ và cơ thể đó là sự thái độc. Lá gan và não bộ dùng chung hệ thống thái độc gọi là CYP450. Chúng ta chắc là không ai ngạc nhiên khi nghe nói các em tự kỷ thường hay có vấn đề liên hệ đến tiêu hóa và táo bón. Chỉ có điều này thôi đã nói lên khả năng thải độc cơ thể của các em tự kỷ rất yếu. Khi cơ thể không thể không thải độc tốt thì các chất độc sẽ mỗi lúc một nhiều hơn. Cơ thể có nhiều chất độc sẽ gây ra các triệu chứng dị ứng đồ ăn hoặc làm cho các em khó chịu khi ăn một loại đồ ăn nào đó vào, điều này có lẽ là lý do làm cho em trở nên kén ăn. Tuy nhiên có những loại đồ ăn rất độc nhưng các em lại thèm và thích ăn chẳng hạn như các đồ ăn có chết gluten từ lúa mì, casein từ sửa bò, soy từ đậu nành, hoặc các đồ ăn được chế biến sẵn khác. Ăn những loại đồ ăn mà hệ thống tiêu hóa và lá gan không thể thải ra hết được thì mỗi lúc cơ thể của các em sẽ trở nên bị viêm (inflammation) nhiều hơn. Nếu bị viêm kinh niên thì cơ thể sẽ rất khó tự phục hồi được. 

Làm sao chúng ta giúp cho các em tự kỷ phục hồi? Tôi nghĩ đây là câu hỏi mà có rất nhiều phụ huynh mong mỏi có câu trả lời. Các câu trả lời thì có nhưng phần lớn chỉ giải quyết được các triệu chứng tạm thời hoặc là thay đổi các triệu chứng. Bây giờ chúng ta cùng nhau phân tích các câu trả lời đang được áp dụng hiện nay bởi đa số các trường lớp dạy trẻ tự kỷ như là ABA (applied behavior analysis). Tôi không có phản đối nào về việc học hành, nhưng tôi nghĩ rằng học hành là bước kế tiếp sau khi chúng ta đã có khả năng để học tập. Điều tôi muốn nói là các em tự kỷ phần lớn não bộ của các em chưa có khả năng để học hành. Không có loài động vật nào sau khi sinh ra phải đi học nói học học phát ra âm thanh của loài đó. Các chương trình dạy cho các em tự kỷ nói rất là thành công trong công việc đó, những cái em chỉ biết nói theo nhưng không hiểu. Theo thiên nhiên, loài người khác với các loài thú ở chổ là đầu óc chúng ta phát triển theo thời gian từ từ chứ không phải là mới sinh ra là có sẵn trí thông minh. Ngày nay nhiều phụ huynh thấy con mình không được lanh lẹ bằng con hàng xóm thì lo lắng và bắt đầu bắt con học nhiều qua việc tận dụng tất cả các phương cách nhất là dùng các máy móc điện tử. Điều này làm khả năng của hai khối não trở nên chênh lệch, não trái khỏe và não phải yếu. Não phải bị yếu thì không hiểu nhiều, và khi không hiểu thì sẽ nói lung tung hoặc sẽ không nói. 

Hồi nhỏ tôi cũng có nhiều triệu chứng như các em tự kỷ dạng nhẹ, nhưng mỗi lúc lớn lên thì các triệu chứng đó dần dần biến đi. Cuộc sống của tôi ngày xưa rất khác với các em bé ngày nay vì mỗi khi đi đâu tôi thường phải đi bộ, lúc nào cũng ra ngoài đường chơi với các bạn hàng xóm, ăn uống thiếu thốn nhưng các đồ ăn có thể nói là lành mạnh hơn các đồ ăn được chế biến sẵn và đóng gói hoặc hộp như ngày nay, cha mẹ tôi không hề cho chúng tôi coi ti vi, với lại lúc đó cũng chẳng có để mà coi, cho tới lúc tôi được 17 tuổi thì tôi chưa học xong lớp 8, tôi thường hay bị các bạn hàng xóm ăn hiếp vì tôi rất chậm chạp. Sau này khi vào tuổi ngoài 20 tôi hiểu hơn thì có khả năng học tập và học ra kỹ sư với bằng cử nhân (BS) và thạc sĩ (MS), sau đó học ra thêm bằng bác sĩ, bằng thạc sĩ đông y học (MSTCM), và học thêm về nhiều lĩnh vực khác nhau để giúp cơ thể con người có khả năng tự phục hồi sức khỏe. Hiện tại thì tôi đang học thi để trở thành CPA (certified public accountant) để giúp tạo công ăn việc làm cho nhiều người chung quanh tôi. Điều tôi muốn nói đây là đầu óc con người cần có nhiều thời gian để phát triển. Một người từng chậm chạp như tôi lúc còn bé vẫn có khả năng phát triển trí tuệ khi lớn lên và tôi tin rằng con của quý vị cũng có khả năng đó hoặc là sẽ được tốt hơn tôi. Tôi cũng có hai con nhỏ trai và gái, nhưng tôi không hề lo lắng về khả năng học lực của chúng. Điều tôi lo lắng cho con tôi và làm sao chúng lúc nào cũng khỏe mạnh, vì có sức khỏe tốt thì đầu óc sẽ dần dần có sự phát triển. Đầu óc phát triển thì tự nhiên chúng ta sẽ hiểu và lúc đó sẽ biết là phải làm gì để sinh tồn. Bây giờ làm sao chúng ta giúp cho con em chúng ta có được sự phát triển của đầu óc theo thời gian? Tôi nghĩ là sẽ có rất nhiều sự bất đồng khi trả lời câu hỏi này, nhưng riêng tôi thì tôi sẽ cố gắng giúp cho các em sống gần gũi được với thiên nhiên được nhiều chừng nào hay chừng đó. Chúng ta không thể nào lúc nào cũng giữ các em ở trong phòng có bốn bức tường và đưa cho các em các máy vi tính hoặc máy móc điện tử và các loại bánh kẹo và tin rằng con mình sẽ được phát triển bình thường khỏe mạnh. Những điều ngày nay chúng ta gặp nơi các trường lớp, nhất là ở Mỹ, có thể nói là không có đủ sự va chạm với thiên nhiên để giúp cho đầu óc của các em phát huy được hết khả năng. Lý do là bởi vì ai cũng sợ bị thưa kiện mỗi khi có tai nạn xảy ra nhất là đối với các em tự kỷ bởi vì các em bé này thường hay bị thiếu khả năng điều khiển tay chân, do đó dễ bị té đập đầu xuống đất. Điều này đã xảy ra với tôi nên tôi rất hiểu về việc này. Khi làm việc với các bệnh nhân có bệnh kinh niên như tự kỉ, ung thư, hoặc một bệnh nào tương tự thì sự rủi do tai nạn dễ xảy ra. Do đó quý vị phụ huynh cũng phải biết cách chữa trị để tự giúp cho con của mình bởi vì các căn bệnh kinh niên đòi hỏi thời gian chữa trị tại gia lâu dài. Tôi nghĩ rằng không có ai có thể giúp cho con em của quý vị tốt hơn là chính quý vị. Lúc trước tôi nghĩ rằng tôi có thể làm được tốt hơn quý vị, nhưng sau khi bị tai nạn xảy ra một lần thì tôi biết rằng mình đã suy nghĩ sai. Để trở lại vấn đề làm sao giúp cho con não bộ của các em tự kỷ autism tiến bộ và tự phục hồi một cách tự nhiên? Câu trả lời của tôi là phải cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể của các em và cùng lúc giúp cho cơ thể của các em thải ra hết các chất độc. Khi làm được điều này thì các hóa chất trong não của các em sẽ thay đổi và dần dần các triệu chứng tự kỷ sẽ mất đi. Điều này nghe nói rất dễ nhưng thật sự không dễ vì nó đòi hỏi phải tốn sức lực toàn thời gian của một người để chăm sóc và luyện tập cho từng em tự kỷ, và thời gian có thể kéo dài đến hai năm hoặc hơn. Não bộ cần hai thứ để sống và phát triển đó là nhiên liệu và sự kích thích. Nhưng liệu ở đây là chất đường glucose trong máu và khí oxy. Còn sự kích thích là những gì tiếp thu được qua các giác quan như là các di động của cơ bắp thịt, những gì nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, và cảm giác được qua làn da. Ngoài những điều vừa nêu trên các em tự kỷ cần phải tránh các sinh hoạt làm tăng khả năng não trái, nhưng các em cần có những sinh hoạt giúp tăng khả năng của não phải. Nếu các em bé này dễ ăn uống, dễ uống thuốc, và biết tự đi vệ sinh thì việc giúp cho các em tự phục hồi sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Cho dù phương cách chữa trị có hiệu quả cao cỡ nào đi chăng nữa, nhưng những gì đã hư thì không thể làm trở lại được bình thường. Điều may mắn là những nguyên cứu từ các hình chụp từ não bộ không thấy có sự hư hại bên trong não, tuy nhiên hình chụp của những người tự kỷ lớn tuổi cho thấy tiểu não của họ mau bị teo nhỏ lai. Do đó tôi mong quý vị lo học hỏi cách chữa trị cho các em càng sớm càng tốt để cho cơ thể của các em dễ có khả năng tự phục hồi.

Thật ra không có ai có thể khẳng định được vì lý do nào tạo ra tự kỉ nơi trẻ em, nhưng dựa trên thống kê từ nhiều nguyên cứu thì có từ 5 đến 15 % các em tự kỷ nằm vào dạng gọi là "syndromic", có nghĩa là có liên hệ nhiều đến di chuyển hoặc gene, còn 85 đến 95 % còn lại các em tự kỷ khác thì nằm vào dạng "essential", có nghĩa có liên hệ ảnh hưởng từ môi trường sống. Nếu chúng ta lấy con số cao nhất thì có 15% các em tự kỷ nằm vào dạng "syndromic", phần còn lại 85% tổng số các em tự kỷ thì thuộc vào dạng "esential". Chỉ nhìn vào hai nhóm này chúng ta thấy được môi trường sống ảnh hưởng đến tám 85% tổng số các em bị tự kỷ. Nếu điều này là đúng thì chúng ta có thể giúp được các em tự kỷ trong nhóm "esential" rất nhiều bằng cách giúp cho em thay đổi môi trường sống. Những ảnh hưởng trực tiếp đến chúng ta từ môi trường sống đó là ăn uống, nghỉ ngơi, vận động, sinh hoạt, tiểu và đại tiện, và vân vân.

Nhìn từ một góc độ khác chúng ta phân tích các em gọi chung là tự kỷ, nhưng các nhà nguyên cứu cho biết là rất nhiều em không phải là tự kỷ autism nhưng là Schizophrenia. Nói chung tự kỷ và Schizophrenia rất giống nhau, nhưng có rất nhiều người bình thường lại là Schizophrenia, điều này có nghĩa là các em Schizophrenic rất có thể trở thành người bình thường. Điều này có lẽ giải thích được tại sao có những em tự kỷ phục hồi được, và có những em không phục hồi được. Quá trình giúp em tự kỷ phục hồi, phương cách chữa trị tôi dùng lúc nào cũng có sự thay đổi, lúc nào tôi cũng tìm kiếm, nguyên cứu và học hỏi thêm để giúp nâng cao phát suất thành công. Tôi dùng rất nhiều phương cách khác nhau nhưng cuối cùng tôi đã đi tới kết luận là tất cả các bệnh kinh niên của thái hòa như là tự kỷ, ung thư, tiểu đường, và vân vân đều có liên hệ đến hai điều đó là thiếu hụt dinh dưỡng vào cơ thể không thải độc tốt. Để giúp cơ thể giải quyết hai điều này thì cuộc sống của chúng ta cần gần gũi được với thiên nhiên nhiều chừng nào thì tốt chừng đó. Hơn 2500 năm về trước, Hippocrates là người sáng lập ra y học (father of medicine), đã có câu châm ngôn tạm dịch sang tiếng Việt là "dùng đồ ăn để chữa bệnh". Khi áp dụng châm ngôn của người sáng lập ra ngành y học, tôi nhận thấy là phát xuất thành công khi hổ trợ chữa trị cho các căn bệnh kinh niên thái hòa được nâng cao. Từ đó tôi mới hiểu rằng chúng ta không thể chữa các tên bệnh như là ung thư, tự kỷ, tiểu đường, và vân vân được, bởi vì đó chỉ là các tên của bệnh. Một người thật sự có sự phục hồi sức khỏe sẽ không có một căn bệnh nào trên hoặc trong người. Ngày nay không có một bác sĩ nào có thể làm được điều này, kể cả tôi, bởi vì ai cũng lo chữa các triệu chứng. Khi chữa được triệu chứng này thì triệu chứng khác lại mọc lên, cũng như là khi giúp trẻ em tự kỷ ngưng được hành vi này thì hành vi khác lại nổi lên. Chúng ta không thể dùng các loại thuốc làm các em tự kỷ bị đơ đi để các em ngồi yên hoặc phải ngủ suốt ngày mà gọi lại là chữa trị được. Quý vị có khi nào cảm thấy rằng sau khi ăn những loại đồ ăn không hợp vào, chẳng hạn như là đồ ăn có nhiều chất ngọt, quý vị cảm thấy người dễ chịu hơn nhưng sau đó đầu óc trở nên không bình thường không? Không phải ai cũng bị nhưng có khá nhiều người sẽ bị các triệu chứng như sụp tinh thần (depression) hoặc là lo sợ (anxiety) sau khi ăn các đồ ăn làm cho đường trong máu lên xuống thất thường. Hệ thống thần kinh não bộ và hệ thống tiêu hóa liên hệ trực tiếp với nhau. Nói một cách khác thì đồ ăn uống liên hệ đến thần kinh não. Khi các em tự kỷ ăn uống các đồ ăn đó vào thì sẽ trực tiếp có sự liên hệ đến hệ thống thần kinh não hoặc là liên hệ đến hành vi của các em. Tại sao điều này sảy ra nơi các em tự kỷ nhiều hơn người thường, tôi nghĩ là sẽ có nhiều câu trả lời, nhưng câu trả lời làm tôi nghĩ đến ngay đó là vì phần lớn các em tự kỷ đều bị triệu chứng xì đường ruột (leaky gut syndrome), điều này có thể làm các đồ ăn rất nhỏ chưa được tiêu hóa hết mức có thể đi vào máu. Chạy lên não, và đi toàn cơ thể. Tự kỷ là một trong những dạng bệnh thái hóa và kinh niên, do đó dù ít hay nhiều đều có bị suy yếu hoặc bị hư hại gan phần nào. Do đó phương cách hổ trợ phải có sự giúp đỡ cho gan được tốt hơn và từ đó gan sẽ giúp cơ thể thải các chất độc ra ngoài được tốt hơn. Có những em bé bị các triệu chứng tự kỷ vì do nhiều bệnh khác nhau gây ra và trường hợp này gọi là Secondary Autism, vì vậy các em cần phải có được sức khỏe thật tốt càng sớm chừng nào thì sẽ dễ dàng giúp cho cơ thể của các em tự phục hồi chừng đó.

Cũng như tôi đã có trình bày là tôi không thể nào chữa được các triệu chứng bệnh, do đó tôi phải tìm cách để giúp nâng cao kháng thể và nâng cao khả năng làm việc của tất cả các hệ thống trong cơ thể của người bệnh nhân, từ đó chính cơ thể của người bệnh nhân tự chữa cho họ. Vì lý lẽ này tôi sẽ cố gắng tránh dùng từ chữa trị nhưng tôi sẽ thay thế vào đó bằng chữ như là trợ giúp phục hồi, hổ trợ, hoặc vân vân. Cơ thể của quý vị hoặc của các em tự kỷ mới chính là nơi phát ra khả năng tự chữa bệnh thật sự. Công việc của tôi làm là chỉ trợ giúp và hướng dẫn trong thời gian đầu, sau đó thì quý vị phải tiếp tục tự giúp chữa trị cho các em tại gia. Tự kỷ hay là các bệnh kinh niên khác đòi hỏi thời gian chữa trị và chăm sóc lâu dài tại gia, do đó chỉ có quý vị hoặc những người thân trong gia đình mới có khả năng làm được điều này. Khi trong gia đình có người tận tình chăm sóc thì cho dù bệnh gì đi chăng nữa thì cơ hội tự phục hồi của người bệnh nhân sẽ được tăng cao. Chúng ta sẽ giúp thêm được nhiều em tự kỷ tự phục hồi khi mà quý vị nhiệt tình áp dụng phương cách trợ giúp tự nhiên bằng dinh dưỡng, thải độc, và luyện tập cho các em tại gia. Phương cách này rất tốn kém thời gian và chi phí, nhưng tôi tin rằng không có cách khác để giúp các em tự kỷ trở thành bình thường nếu chúng ta không có sự hy sinh tài chánh và thời gian.

Liên lạc:  Dr. Đỗ Hoài Vincent, San Jose Brain Wellness Institute, 2360 McKee Rd, Ste 5, San Jose, CA 95116, USA. Telephone: (408)770-9798; Email: drvincentdo@gmail.com ; www.SanJoseBrainWellnessInstitute.com ; Blog: sanjosebrainwellnessinstitute.blogspot.com